Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đồng ý chủ trương để Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank) tham gia làm cổ đông chiến lược khi cổ phần hóa các cảng thành viên thuộc Tổng công ty Hàng hải (Vinalines) bằng toàn bộ khoản cho vay 5.000 tỷ đồng.
Nhất là trong bối cảnh Vinalines nợ quá hạn tới 6.681 tỷ đồng, hệ số tổng tài sản trên tổng nợ phải trả là 0.99%. Vậy, đây có phải là giải pháp tối ưu với Vinalines hay không?
Để hiểu rõ hơn về cách giải quyết này, báo Đất Việt xin đăng tải bài phân tích rất sâu của chuyên gia kinh tế - TS Nguyễn Trí Hiếu về vấn đề này.
Từ chủ nợ thành chủ đầu tư
Trên thực tế, việc xử lý nợ xấu có thể có nhiều giải pháp khác nhau. Một trong những giải pháp thông thường là nếu người đi vay không còn khả năng thanh toán ngân hàng có thể thu hồiphát mãi tài sản để xử lý nợ (nếu con nợ còn tài sản) rồi phần còn lại của món nợ mới xóa nợ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng và đem ra ngoại bảng.
![]() |
Ụ nổi M83 của Vinalines |
Việc NHNN cho Vietinbank chuyển khoản nợ xấu 5.000 tỷ đồng thành vốn đầu tư cho Vinalines cũng là một cách. Tức là, xử lý nợ xấu của Vinalines thông qua hình thức chuyển nợ của Ngân hàng Vietinbank thành vốn góp cổ phần. Vậy phải hiểu cách giải quyết này thế nào?
Thứ nhất, việc chuyển nợ trở thành vốn đầu tư (biến khoản nợ 5000 tỷ thành vốn góp cổ phần thông qua mua cổ phiếu của Vinalines) đồng nghĩa với việc Vietinbank từ một chủ nợ trở thành chủ đầu tư của Vinalines. Nếu vậy có hợp lý không?
Về nguyên tắc ngân hàng không nên đầu tư vào doanh nghiệp với vai trò là một nhà đầu tư. Cách làm này không phù hợp với vai trò, chức năng của một NHTM. Vai trò của một NHTM là huy động vốn từ người dân và cho vay ra. Cả đầu vào và đầu ra đều mang tính chất cho vay, được trả và hưởng lãi suất và có thời hạn (thời hạn trả lại tiền gửi cho dân chúng và thời hạn trả nợ của khách hàng). Đầu vào và đầu ra đều khớp nhau về đặc tính của dòng vốn.
Nay nếu Vietinbank biến khoản nợ thành vốn đầu tư vào Vinalines nghĩa là đang lấy tiền gửi của dân đi đầu tư thì đầu vào và đầu ra hoàn toàn không khớp với nhau. Liên quan đến đặc tính sinh lời thì đầu vào là tiền gửi của dân chúng là loại tài sản nợ (đối với ngân hàng) và được hưởng lãi suất cố định trong thời gian gửi tiền, nhưng đầu ra lại là đầu tư, một loại tài sản có, không kỳ hạn và không được hưởng lãi suất, mà chỉ được hưởng cổ tức nếu doanh nghiệp có lãi. Nếu doanh nghiệp thua lỗ thì không có chia lời bằng cổ tức trong khi ngân hàng vẫn phải đều đặn trả lãi cho tiền gửi của dân chúng.
Liên quan đến đặc tính thanh khoản, đầu tư là một hình thức sử dụng tiền vĩnh viễn không có thời hạn hoàn trả nên sau này nếu ngân hàng muốn thoái vốn khỏi Vinalines thì chỉ có cách bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nói một cách dễ hiểu, một khi Vietinbank đã trở thành cổ đông của Vinalines và chôn chặt đồng tiền của mình vĩnh viễn vào cổ phiếu của Vinalines thì ngân hàng này không thể đòi Vinalines trả lại tiền cho mình.
Dĩ nhiên Vinalines có thể bị ép mua lại cổ phần để đem vào cổ phiếu quỹ nhưng Vinalines sẽ không bao giờ cam kết pháp lý làm việc đó, Trong khi đó, Vietinbank phải thanh toán tiền gửi của dân chúng khi đến hạn đến hạn với một lượng tiền tương đương với số tiền đã chuyển sang cổ phiếu đầu tư vào Vinalines. Điều này sẽ tạo ra rủi ro thanh khoản cho Vietinbank, trừ trường hợp Vietinbank nhận được một số tiền tương đương được ủy thác không kỳ hạn từ chính phủ hay một tổ chức kinh tế nào khác, và khoanh lại dự phòng cho khoản đầu tư. Đây là điều chắc không thể xảy ra.
Tại Việt Nam các ngân hàng mang hình thức của một ngân hàng đa năng (universal bank), tức là loại ngân hàng tổng hợp cả chức năng ngân hàng thương mại (commercial bank) và ngân hàng đầu tư (investment bank - có thể đầu tư trực tiếp vào cổ phiếu của doanh nghiệp), nhưng trên thực tế các ngân hàng tại Việt Nam hoạt động chủ yếu như một ngân hàng thương mại.
Nếu xét như thế thì việc Vietinbank chuyển đổi nợ của Vinalines sang đầu tư cổ phiếu là không hoàn toàn phù hợp với hoạt đông hiện nay của Vietinbank. Tại Mỹ có một số ngân hàng đầu tư thuần túy. Họ có thể đầu tư trực tiếp vào một số loại hình doanh nghiệp cho phép nhưng các ngân hàng này không thể huy động tiền nhàn rỗi của dân chúng qua việc mở tài khoản vãng lai/không kỳ hạn cho khách hàng. Phát hành trái phiếu cho các tổ chức kinh tế là cách huy động vốn thông thường của ngân hàng đầu tư để tài trợ hoạt động đầu tư của họ.
Trở lại câu chuyên của Vinalines, Vietinbank sẽ phải gặp một vấn đề nữa là vấn đề về quản lý tài sản của mình tại Vinalines: Trước tới nay vai trò của NHTM là người cho vay chuyên nghiệp. Đồng tiền cho vay được kiểm soát dưới góc độ quản lý rủi ro cho vay, chứ không phải dưới góc độ đầu tư. Đây là hai cách quản lý rủi ro hoàn toàn khác nhau.
Người cho vay chuyên nghiệp chủ yều nhắm vào việc thu hồi lại đồng tiền đã cho vay ra, còn nhà đầu tư chuyên nghiệp nhắm vào sự gia tăng giá trị đồng vốn đã đầu tư. Quan điểm và kế hoạch hành động của hai vai trò này rất khác nhau. Chinh vì điểm này mà Vietinbank là nhà đầu tư chiến lược sẽ phải tham gia vào việc quản trị doanh nghiệp tại Vinalines, một phận sự xa lạ đối với người cho vay chuyên nghiệp.
Hay có thể nói một cách khác là nay ngân hàng đã rời khỏi chức năng của một ngân hàng thương mại và đi vào thực hiện vai trò của người sản xuất kinh doanh. Mà NH không có kỹ năng, kiến thức và nghiệp vụ làm việc đó. Do đó, nó không phù hợp với chức năng của một NH.Đó là nói về chức năng, còn về thực tế thì Ông nhận định ra sao về việc đầu tư của Vietinbank vào Vinalines khi mà bên cạnh 6.681 tỉ đồng nợ quá hạn Vinalines đang có VCSH âm 2.100 tỉ đồng và tỉ lệ tổng tài sản trên tổng dư nợ phải trả là 0,99%?
Nếu đây là những con số chính xác thì một doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu âm thì doanh nghiệp đó đang trong tình trạng phá sản. Do đó, khi nhìn vào con số này mà Vietinbanks trở thành cổ đông chiến lược của Vinalines thì về mặt kinh doanh là rất rủi ro, mạo hiểm.
Chỉ là cách xử lý nợ kỹ thuật
Vậy thì đây có phải là giải pháp tối ưu với Vinalines hay không? Như đã bàn, một NH đầu tư vào doanh nghiệp ngấp nghé phá sản hoặc đang phá sản là không hợp lý và quá mạo hiểm. Không kể số tiền đầu tư vào các công ty con nào của Vinalines, nhưng theo kế toán hợp nhất số tiền chuyển nợ thành vốn đầu tư của Vietinbank 5.000 tỉ đồng trước nhất phải bù trừ cho số vốn chủ sở hữu âm 2.100 tỉ đồng, phần còn lại 2.900 ti đồng mới được xem là phần góp vốn thực sự cho tập đoàn Vinalines.
Việc chuyển nợ xấu thành vốn đầu tư là cách xử lý tại một vài quốc gia và trong một vài trường hợp cũng có thể chấp nhận được nhưng với điều kiện doanh nghiệp đó phải có tiềm năng và khả năng phục hồi. Còn nếu không thì chuyển bao nhiêu nợ xấu thành vốn chủ sở hữu của một doanh nghiệp đang phá sản và không có khả năng phục hồi chỉ là cách xử lý nợ kỹ thuật.
Không nhận định khả năng tài chính của Vinalines thế nào, khả năng phục hồi ra sao nhưng nếu dựa vào những con số vừa đưa ra như trên thì việc chuyển nợ thành vốn đầu tư trong trường hợp Vinalines là không có ý nghĩa, trừ trường hợp Chính phủ sẽ bảo lãnh tất cả những khoản nợ còn lại của Vinalines và phải bơm thêm vài nghìn tỉ cho Vinalines tiếp tục hoạt động hay ít nhất dưới điều kiện là các công ty con của Vinalines mà Vietinbank sẽ đầu tư có thể tách bạch khỏi công ty mẹ về mặt tài chính cũng như quản lý.
Điều đó có nghĩa là ngoài việc Vietinbank hoán chuyển nợ thành vốn cổ phần chính phủ phải bơm thêm tiền và có những biện pháp hỗ trợ khác để cùng Vietinbank phục hồi lại hoạt động kinh doanh có hiệu quả của tổng công ty này.
Khi đó, quyền lợi của Vietinbank sẽ được đảm bảo. Nếu làm như vậy thì đó lại là giải pháp tốt cho Vietinbank.
Nếu trong trường hợp không xác định được khả năng hồi phục thì cách xử lý nhanh nhất là xử lý tài sản thế chấp của Vinalines, thanh lý tài thế chấp cũng như tất cả các dòng tiền Vinalines đang có để thu hồi đồng vốn nhiều chừng nào hay chừng đó.
Theo kinh nghiệm, khi một khách hàng đã trở thành nợ xấu thì càng nuôi nợ xấu lâu càng thiệt hại nhiều. Do đó, cách tốt nhất là xin thanh lý tài sản bảo đảm, phần không thu hổi được thì xin Chính phủ cho xóa nợ. Khi xóa nợ được thì sẽ trở nên rảnh tay với các ngân hàng cho Vinalines vay. Khi đó, Vinalines đóng lại một chương cũ trong lịch sử để mở một chương mới.
Nếu cứ giữ vỏ cũ, ruột cũ nuôi nó sống để các tổ chức kinh tế, chính phủ cũng phải bận tâm tới việc tái cơ cấu Vinalines thì có lẽ là rất lãng phí.