So găng tam trụ BIDV, Vietcombank, Vietinbank

(NDH) BIDV và Vietcombank dường như đang có chiến lược kinh doanh giống nhau còn Vietinbank lựa chọn hướng đi hoàn toàn khác. Có lẽ phải kết thúc 2015 thị trường mới biết đâu là chú ngựa chiến thắng của giải “ngoại hạng”.

Trong đó các NHTM Nhà nước tiếp tục thể hiện vai trò dẫn dắt thị trường với quy mô tổng tài sản, thị phần tín dụng vượt trội. Còn về phía các NHTMCP chứng kiến những đột biến ở cả khía cạnh tích cực cũng như hạn chế tại một số TCTD.

Với góc nhìn như vậy, báo Người Đồng hành chia sẻ quan điểm cùng độc giả về hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thông qua 2 bài viết: “So găng tam trụ BIDV, Vietinbank, Vietcombank” và “Hiện tượng Eximbank và SHB”.

Bài 1: Tam trụ BIDV, Vietinbank, Vietcombank

Nhóm 4 NHTM Nhà nước chi phối ngoài Agribank đang trong quá trình tái cơ cấu thì 3 ông lớn còn lại Vietinbank, BIDV và Vietcombank đều đã niêm yết nên KQKD được công bố đúng hẹn. Với vị thế cũng như tiềm lực của mình, 3 ông lớn BIDV, Vietinbank và Vietcombank tiếp tục là đầu tàu dẫn dắt hệ thống thông qua thị phần tín dụng, quy mô tổng tài lớn. Đây là “tam mã ngoại hạng” với cuộc chơi riêng trên thị trường

Tính đến 31/12/2014, tổng tài sản của 3 NHTMCP do Nhà nước chi phối hơn 1,88 triệu tỷ đồng, trong đó Vietinbank dẫn đầu với 661 ngàn tỷ đồng. Vietcombank có tăng trưởng mạnh nhất, hơn 22,4% lên 574 ngàn tỷ đồng nhưng tổng tài sản vẫn thấp hơn BIDV và Vietinbank khá nhiều.

Nếu như quy mô tổng tài sản thể hiện tiềm lực cho ngân hàng thì tín dụng, huy động là những chỉ số kinh doanh giúp đánh giá hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng

Theo báo cáo KQKD hợp nhất, tính đến 31/12 chỉ có Vietcombank có dư nợ cho vay thấp hơn vốn huy động. Tỷ lệ LDR (tỷ lệ cho vay/huy động) của Vietcombank chỉ 77% trong khi Vietinbank và BIDV đều vượt 100%. Mặc dù, LDR không phải là chỉ tiêu duy nhất nhưng được sử dụng nhằm đo lường khả năng thanh khoản của ngân hàng. LDR thấp cho thấy Vietcombank vẫn theo đuổi chiến lược kinh doanh an toàn trước tiên.

Cuộc đua giành thị phần được thể hiện rõ hơn qua tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động vốn trong năm 2014. Theo đó, trong khi BIDV và Vietcombank đẩy mạnh huy động vốn tiền gửi với tỷ lệ tăng trưởng gần 30% đồng thời tiết chế tốc độ cho vay ra với tăng trưởng 13,9% và 17,8% thì Vietinbank có sự tăng trưởng đồng đều ở cả 2 đầu. Qua số liệu tăng trưởng tín dụng, huy động cũng như tỷ lệ cho vay/huy động có thể thấy dường BIDV, Vietcombank hướng tới khách hàng lớn có biên lợi nhuận cao còn Vietinbank hướng tới mở rộng đối tượng khách hàng. Điều này thể hiện rõ hơn qua thu nhập lãi thuần của 3 ngân hàng.

Số liệu cho thấy, tăng trưởng tín dụng khá cao, cao hơn mức trung bình ngành nhưng thu nhập lãi thuần từ hoạt động cho vay diễn biến khác nhau dựa các ngân hàng. BIDV có tăng trưởng lãi thuần khá cao, tương đương với tăng trưởng tín dụng cho thấy lãi biên của ngân hàng không thay đổi nhiều so với năm 2013. Vietcombank thì tốc độ tăng lãi thuần chỉ bằng một nửa tốc độ tăng trưởng tín dụng cho thấy lợi nhuận biên của ngân hàng giảm. Còn với Vietinbank thậm chí lãi thuần còn tăng trưởng âm.

Như đã phân tích ở trên, có thể chiến lược của Vietinbank trong năm 2014 là mở rộng đối tượng vay, hỗ trợ lãi suất nhằm tăng thị phần khách hàng hoặc tham gia mạnh mẽ vào các chương trình tín dụng ưu đãi. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng các khoản cho vay của Vietinbank đến hạn nhưng chưa được thanh toán.

Đến cuối 2014, số nợ xấu tại BIDV và Vietcombank đều giảm so với cuối năm 2013 cả tuyệt đối và tương đối. Cụ thể, nợ xấu tại 31/12/2014 của BIDV là 8.562 tỷ đồng, giảm 276 tỷ đồng so với cuối 2013; còn nợ xấu của Vietcombank là 7.457 tỷ đồng giảm 16 tỷ đồng. Tuy nhiên, nợ xấu tại Vietinbank lại gia tăng khá mạnh nếu tính về số tuyệt đối, từ 3.769 tỷ đồng lên 4.903 tỷ đồng, tương đương tăng 30%. Nhưng với tốc độ tăng trưởng tín dụng khá nên tỷ lệ nợ xấu tương đối của Vietinbank vẫn thấp nhất trong 3 ngân hàng, chỉ từ 1% lên 1,1%.

Nợ xấu giảm có nhiều nguyên nhân trong đó có sự chủ động xử lý của các ngân hàng thông qua trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Vietcombank dẫn đầu với tăng chi phí trích lập thêm 30% so với năm 2013, tiếp đến là BIDV với 9,27%. Tăng trích lập dự phòng ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng. Tuy vậy, lãi trước thuế của BIDV vẫn tăng gần 20% còn Vietcombank tăng nhẹ 2,3%.

Vietinbank lại một lần nữa có ứng xử khác so với 2 “đối thủ” khi giảm trích lập dự phòng rủi ro tính dụng dù nợ xấu tăng nhưng vẫn không cứu được lợi nhuận. Năm 2014, lợi nhuận trước thuế của Vietinbank là 7.302 tỷ đồng giảm 5,78% so với 2013.

Có thể thấy, trong năm 2014, cuộc đua tam mã diễn ra khá quyết liệt. Trong đó, BIDV và Vietcombank dường như đang có chiến lược kinh doanh giống nhau còn Vietinbank lựa chọn hướng đi hoàn toàn khác. Có lẽ phải kết thúc 2015 thị trường mới biết đâu là chú ngựa chiến thắng của giải “ngoại hạng”.