IMF: Sáp nhập các ngân hàng yếu kém mới chỉ giải quyết vấn đề trước mắt

IMF: Sáp nhập các ngân hàng yếu kém mới chỉ giải quyết vấn đề trước mắt

(NDH) Đại diện thường trú của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Sanjay Kalra vừa có cuộc phỏng vấn vơi tờ The Wall Street Journal (WSJ) về tình hình kinh tế tại Việt Nam.

Việt Nam đã nỗ lực duy trì được một nền kinh tế vĩ mô ổn định trong những năm gần đây, với lạm phát thấp và tăng trưởng kinh tế đang dần tăng tốc.

Nền kinh tế đã ghi nhận tăng trưởng GDP năm 2014 ở mức 5,98%, vượt mục tiêu ban đầu của chính phủ là 5,8% và cao hơn so với mức 5,42% của năm 2013. Trong khi đó, lạm phát ở mức 1,84%, mức thấp kỷ lục trong nhiều thập kỷ do sự giảm giá mạnh của dầu thô thế giới.

Tuy nhiên, nợ công của Việt Nam đã tăng lên mức đáng lo ngại, trong khi những nỗ lực nhằm giảm nợ xấu tại hệ thống ngân hàng đang gặp nhiều rào cản. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thời gian gần đây vẫn tạo ra những nghi vấn về việc liệu sự gia tăng cải cách trong quản trị và hoạt động doanh nghiệp có thành công hay không khi sự tham gia của khu vực tư nhân bị hạn chế.

Đại diện thường trú của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam, ông Sanjay Kalra đã có cuộc phỏng vấn với tờ The Wall Street Journal (WSJ) về tình hình kinh tế Việt Nam cũng như những hành động gì cần phải có để có được sự tăng trưởng bền vững trong những năm tới.

Người Đồng Hành xin trích lại bài phỏng vấn này của WSJ (Nội dung tạm dịch sau đây có thể được chỉnh lại trong tương lai cho sát nghĩa hơn):

Ông Sanjay Kalra

WSJ: Quan điểm của ông về tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay là gì?

Ông Sanjay Kalra: Tình hình kinh tế vĩ mô tại Việt Nam đã ổn định trong hơn 2 năm qua. Tỷ lệ lạm phát đã được giữ ở mức một con số trong một thời gian dài, một phần được hỗ trợ bởi giá dầu thế giới giảm mạnh vào cuối năm 2014. Tăng trưởng GDP thực tế đã dần hồi phục và ở mức khoảng 6% năm 2014, điều này được hỗ trợ bởi sự gia tăng xuất khẩu mạnh mẽ và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhu cầu nội địa cũng đã hồi phục phần nào với sự gia tăng trong xây dựng nguồn vốn cùng sự phục hồi nhẹ trong tiêu dùng. Bên cạnh đó, có những dấu hiệu đầu tiên cho thấy ngành bất động sản và xây dựng, vốn bị tụt hậu, đang dần hồi phục. Tỷ giá hối đoái tiếp tục ổn định, cán cân tài khoản vãng lai thặng dư và dự trữ ngoại hối đã gia tăng từ mức thấp ghi nhận vào giữa năm 2011.

Một số hãng định mức tín nhiệm quốc tế cũng đã công nhận những thành tích này và nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia lại thị trường trái phiếu toàn cầu với việc phát hành 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ trong năm 2014 với những điều khoản có lợi. Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách tăng và những khoản bảo lãnh đối với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã khiến nợ công và nợ do chính phủ bảo lãnh tăng lên mức đáng lo ngại.

Tiến trình cải cách cơ cấu đang được thực hiện nhưng cần phải gia tăng tiến độ và hiện còn rất nhiều việc phải làm để cải cách ngành ngân hàng và DNNN. Cụ thể hơn, một số ngân hàng đã lên kế hoạch sáp nhập năm 2015 và điều này có thể làm giảm gánh nặng hành chính lên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV). Tuy nhiên, trong khi việc sáp nhập đối với các ngân hàng yếu kém có thể giải quyết những vấn đề mang tính trước mắt thì một cuộc cải cách toàn diện, bao gồm giải quyết nợ xấu trong hệ thống tín dụng ngân hàng, tăng nguồn vốn dự phòng, và cải thiện tình hình lợi nhuận cần được xác định rõ và tăng tốc thực hiện với một lịch trình.

Đối với những DNNN, kế hoạch cổ phần hóa của nhà nước là đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, việc cổ phần hóa này cần mang ý nghĩa thực tế. Trong những đợt cổ phần hóa gần đây, đặc biệt là đối với những DNNN lớn, những nghi vấn đã được đặt ra về mức độ cải thiện trong quản trị và hoạt động của DNNN liệu có thể thành công khi có sự hạn chế tham gia của khu vực tư nhân. Ngoài ra, việc giảm đặc quyền mà các DNNN đang đang có sẽ giúp tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho khu vực tư nhân.

WSJ: Việt Nam có nên tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong năm nay không? Nếu có thì nên nới lỏng bao nhiêu?

Ông Sanjay Kalra: Trong tình hình lạm phát giảm và ở mức thấp như hiện nay, các ngân hàng thương mại đã có những động thái nhằm giảm cấu trúc lãi suất trong hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, SBV đã duy trì một chính sách tiền tệ mang tính hỗ trợ với tính thanh khoản cao trong hệ thống ngân hàng. Kết quả là lãi suất liên ngân hàng đã thấp hơn lãi suất chính sách trong cả năm 2013 và 2014. Tuy lạm phát giảm tạo một số điều kiện cho việc giảm lãi suất hơn nữa, nhưng mức giảm này chỉ có thể tạo ra tăng trưởng tín dụng nếu những vấn đề trong ngành ngân hàng đã được giải quyết.

WSJ: Sự sụt giảm giá dầu ảnh hưởng tới Việt Nam như thế nào?

Ông Sanjay Kalra: Dự kiến Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ sự sụt giảm của giá dầu toàn cầu thông qua một số kênh. Đầu tiên, giá dầu giảm dự kiến sẽ giúp nâng cao thu nhập thực tế và tiêu dùng. Thứ hai, giá dầu giảm được dự đoán sẽ làm giảm chi phí sản xuất các hàng hóa cuối cùng, qua đó làm gia tăng đầu tư cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Thứ ba, giá dầu giảm sẽ góp phần làm giảm lạm phát. Thứ tư, cán cân thương mại được dự kiến sẽ cải thiện.

Tuy nhiên, thu ngân sách từ dầu mỏ sẽ giảm. Tại Việt Nam, một số loại thuế đã được gia tăng nhằm bù đắp những tác động của giá dầu giảm đối với ngân sách.

WSJ: Việt Nam đang đa dạng hóa thị trường của mình nhằm tránh phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường duy nhất. Quan điểm của ông về vấn đề này là gì và ông có lời khuyên gì cho Việt Nam?

Ông Sanjay Kalra: Việc hoàn tất đàm phán một số hiệp định thương mại tự do (FTA) của Việt Nam trong năm 2014 là một thành tích ấn tượng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã đẩy mạnh những cam kết về Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định Đối tác Chiến lược Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (TPP). Những FTA và thỏa thuận thương mại này sẽ cung cấp thêm các cơ hội cho Việt Nam thông qua việc xuất nập khẩu hàng hóa tự do hơn, tạo điều kiện xâm nhập vào một thị trường lớn hơn với nhu cầu cao hơn. Hơn nữa, điều này cũng giúp làm tăng nguồn cung đối với thị trường nội địa với những hàng hóa rẻ tiềm năng, qua đó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.

Trong khi đó, sẽ có những thách thức liên quan đến cạnh tranh thương mại. Để có thể đối mặt với những thách thức này thành công thì Việt Nam cần cải thiện cơ cấu thể chế và nâng cao năng suất. Những cải cách này sẽ giúp Việt Nam giảm chi phí lao động và phi lao động trong sản xuất, đồng thời gia tăng sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam như là một điểm đến của đầu tư và kinh doanh. Đặc biệt, việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, như giữ lạm phát ở mức thấp, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái và gia tăng niềm tin vào đồng Việt Nam (VND), sẽ cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự gia tăng lợi ích từ thương mại của Việt Nam.

WSL: Quan điểm của ông về nợ xấu của Việt Nam là gì?

Ông Sanjay Kalra: Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) đã hoạt động tích cực trong việc mua lại nợ xấu từ các ngân hàng, nhưng tốc độ cần phải được đẩy nhanh hơn nữa. Các ngân hàng đã có một khoảng thời gian dài bán lại những khoản nợ xấu cho VAMC, trong khi những rào cản pháp lý quan trọng trong việc chuyển đổi nợ và chuyển giao tài sản thế chấp đã gây cản trở cho tiến trình giải quyết nợ xấu. Để có thể đẩy nhanh tiến trình này, VAMC cần nhiều quyền hạn hơn trong việc xử lý các tài sản thế chấp, cùng với đó là những trở ngại về pháp lý trong việc định đoạt tài sản thế chấp trên thị trường giao dịch nợ xấu cần phải được giải quyết. VAMC cũng cần hỗ trợ nhiều hơn về nguồn nhân lực và tài chính để có thể giải quyết những khoản nợ xấu trên thị trường giao dịch nợ xấu. Một thị trường giao dịch nợ xấu như vậy cần có đủ người mua và người bán để có thể hoạt động, đồng thời thị trường này có thể sẽ cần sự tham gia của các chuyên gia và nhà đầu tư nước ngoài.