Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 28/10 lại một lần nữa hạ trần lãi suất để, theo như bình luận của nhiều tổ chức và cá nhân, thúc đẩy nhu cầu tín dụng, và nhờ đó, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Có điều, bản chất của việc hạ lãi suất này của NHNN khác hoàn toàn với việc hạ lãi suất của các ngân hàng trung ương thế giới nhằm kích thích tăng trưởng và việc làm.
Như đã biết, NHNN tuyên bố từ ngày 29/10 sẽ điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng tiền đồng (VND) của các tổ chức, cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng, điều chỉnh giảm lãi suất huy động ngắn hạn tối đa bằng đô la Mỹ (USD) của cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 1%/năm xuống còn 0,75%/năm.
Đồng thời, NHNN giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế từ mức 8%/năm xuống 7%/năm. Nhưng mặt khác, NHNN lại giữ ổn định các mức lãi suất điều hành (tái cấp vốn, tái chiết khấu, cho vay qua đêm).
Như vậy, trái với hành động cắt giảm lãi suất thông qua cắt giảm các lãi suất điều hành như nhiều ngân hàng trung ương các nước khác vẫn thường làm, NHNN không cắt giảm lãi suất điều hành, mà lại bắt các ngân hàng thương mại cắt giảm lãi suất huy động (ngắn hạn) của họ. Có mấy điểm đáng nói về chuyện này.
Động thái giảm lãi suất của NHNN đến sau khi một số ngân hàng đã tự giảm lãi suất huy động tiền gửi do dư thừa thanh khoản. Ảnh: TL
Thứ nhất, do nhiều ngân hàng thương mại đã chủ động hạ lãi suất huy động trước đó do dư thừa thanh khoản (cũng một phần do nhu cầu vay của doanh nghiệp và dân cư còn hạn chế), nên việc NHNN hạ trần lãi suất huy động, mà chỉ ở kỳ hạn ngắn, sẽ không có mấy tác dụng đến việc hạ thêm mặt bằng lãi suất huy động ngắn hạn nói riêng và lãi suất huy động nói chung, và bởi vậy không hy vọng nhiều vào việc giảm lãi suất cho vay nói chung.
Thứ hai, việc tiếp tục hạ và vẫn duy trì trần lãi suất tiền gửi, chứ không phải thông qua việc hạ lãi suất điều hành của NHNN, nhằm hạ lãi suất cho vay thực chất là lấy bớt thu nhập lẽ ra được hưởng của người gửi tiền tiết kiệm để trợ cấp cho các ngân hàng thương mại với hy vọng các ngân hàng chia sẻ lợi ích này cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng.
Vậy thì tại sao người gửi tiền nhất định phải là đối tượng bị mang ra để chịu thiệt? Và điều gì có thể giúp khẳng định rằng lãi suất cho vay sẽ hạ (tương ứng) để kích thích tăng trưởng như kỳ vọng của NHNN?
Thứ ba, trong bối cảnh thanh khoản đang dư thừa và nhiều ngân hàng đã chủ động hạ lãi suất huy động ngắn hạn thì việc NHNN tiếp tục duy trì trần lãi suất huy động nếu có chăng chỉ là có tác dụng trừng phạt các ngân hàng nhỏ, yếu, ít uy tín và có vấn đề về thanh khoản, buộc họ phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn bằng việc nâng lãi suất huy động.
Như thế thì việc trừng phạt này là một bất công với các ngân hàng yếu thế hơn khi họ không thể cải thiện tính cạnh tranh bằng nâng lãi suất, một lẽ tự nhiên của quy luật thi trường. Nếu đúng thế thì tốt nhất là nên dẹp luôn các ngân hàng yếu thế này cho nhẹ gánh, thay vì để họ tồn tại một cách lay lắt rồi sau này phải giải quyết hậu quả khi họ trở nên yếu hơn nữa!
Thứ tư, xét về tổng thể, hạ trần lãi suất huy động không nhất thiết làm tăng nhu cầu tín dụng và tăng trưởng kinh tế, vì như đã nói ở điểm thứ hai bên trên, hạ trần lãi suất tức là lấy bớt thu nhập của một bộ phận người gửi tiền, cũng tức là làm giảm một phần tổng cầu đến từ một bộ phận người gửi tiền do thu nhập của họ bị giảm đi tương ứng, từ đó làm triệt tiêu một phần hay hoàn toàn tác động tích cực có thể có lên tổng cầu.
Thứ năm, đành rằng NHNN cũng song song với việc hạ trần lãi suất huy động là hạ trần lãi suất cho vay. Nhưng cần lưu ý rằng đây chỉ là trần lãi suất cho vay ngắn hạn, và cũng chỉ giới hạn ở một số lĩnh vực và ngành nhất định, chứ không phải là cho toàn bộ nền kinh tế.
Bởi vậy, các ngân hàng tuy được lợi từ việc hạ thấp trần lãi suất huy động nhưng lại không bị ép buộc, và không có động cơ để hạ lãi suất cho vay (trong những lĩnh vực và ngành nghề không bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay), hạ biên độ lợi nhuận của mình.
Điều này cũng có nghĩa là ý đồ hạ trần lãi suất huy động của NHNN để hạ mặt bằng lãi suất cho vay nói chung trong nền kinh tế sẽ không có hiệu quả như ý muốn.
Tóm lại, xét trên nhiều khía cạnh, hành động hạ trần lãi suất huy động của NHNN vừa không thể mang lại kết quả tích cực như kỳ vọng, lại vừa gây ra thêm một số hậu quả khác do sự phân biệt đối xử vô hình mà nó mang lại cho người gửi tiền và các ngân hàng nhỏ, yếu. Bằng chứng về tác động hạn chế của việc hạ trần lãi suất huy động cũng đã được thể hiện rõ qua tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn tiếp tục thấp ở những lần hạ trần lãi suất huy động trước đây và trong năm nay.