Theo số liệu báo cáo của cơ quan chức năng, tổng nợ và nghĩa vụ trả nợ công vẫn nằm trong các ngưỡng chỉ tiêu an toàn và đã có cơ chế quản lý tốt hơn trước đây. Nhưng, theo TS. Đinh Tuấn Minh và TS. Phạm Thế Anh, nợ công lại đang nổi lên như một nhân tố đe doạ tăng trưởng kinh tế bền vững. Bởi, xét về xu hướng tăng nợ công, các nguồn hình thành nợ công và đánh giá nợ công theo chuẩn mực quốc tế thì nhiều chỉ tiêu về nợ công của Việt Nam đã vượt qua ngưỡng an toàn.
Nguy cơ ngay trong ngưỡng
Theo Bản tin nợ công số 3 (tính nợ từ 2010 - 2013) vừa được Bộ Tài chính công bố cuối tuần qua, đến hết năm 2013 nợ công của Việt Nam bằng 54,2% GDP, dưới mức "trần" 65% GDP được Quốc hội cho phép và vẫn trong ngưỡng an toàn theo khuyến cáo của WB hay IMF.
Tuy nhiên, Bản tin này mới thống kê con số nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ nước ngoài của doanh nghiệp tự vay tự trả, nhưng chưa tính nợ của chính quyền địa phương.
Một điểm đáng lưu ý trong cấu trúc nợ công của Việt Nam những năm gần đây là chuyển từ vay nợ nước ngoài sang vay nợ trong nước. Một số ý kiến cho đây là tín hiệu tốt nhờ giảm lệ thuộc vào nước ngoài và tránh được rủi ro tỷ giá.
Nhưng theo TS. Đinh Tuấn Minh và TS. Phạm Thế Anh thì không hẳn, lãi suất hữu hiệu của nợ công nước ngoài chỉ nằm trong khoảng từ 2-3%/năm và có kỳ hạn trung bình lên tới hàng chục năm. Ngược lại, các khoản nợ công trong nước từ phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính phủ bảo lãnh có lãi suất hữu hiệu khoảng 11%/năm và chủ yếu (khoảng 90%) có kỳ hạn ngắn từ 2-5 năm. Do vậy, với tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài như hiện nay, sức ép phát hành trái phiếu để đảo nợ và gánh nặng trả lãi của nợ công trong nước là khá lớn.
Nợ công - không chỉ có các nguồn như báo cáo
TS. Đinh Tuấn Minh cho rằng, tổng số nợ không chỉ ở các khoản như "Bản tin nợ công" đề cập, vì trong đó chưa tính nợ của Chính quyền địa phương, nợ của Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội. Theo ông, các khoản nợ của 2 ngân hàng này cần được quản lý và giám sát, bởi tương tự như các khoản vay của DNNN, Chính phủ có thể sẽ phải đứng ra hỗ trợ chi trả từ nguồn ngân sách khi các tổ chức này mất khả năng thanh toán.
Ngân hàng Phát triển, bên cạnh hai nguồn vốn chính hình thành từ việc phát hành trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh và vốn ODA được Chính phủ giao, tổ chức này còn huy động nhiều khoản vay cũng như nhận tiền gửi từ các tổ chức tài chính, tín dụng và tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
TS. Đinh Tuấn Minh cũng đặc biệt lưu ý đến một mầm mống nữa đang đe dọa nợ công, đó là Quỹ Bảo hiểm xã hội. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ này là dùng tiền đóng bảo hiểm hiện tại của những người tham gia để trả cho người có nhu cầu hiện tại.
Thực chất của hoạt động bảo hiểm tương tự như hoạt động tín dụng, trong đó người đóng bảo hiểm như là người cho vay. Quỹ này đã được cảnh báo nguy cơ vỡ theo nghĩa sẽ không có đủ tiền để trả bảo hiểm cho những người đã đóng hàng năm. Vậy mà, theo Luật Bảo hiểm xã hội: "Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo hộ, không bị phá sản". Tức là, trong trường hợp vỡ quỹ thì Chính phủ sẽ phải dùng ngân sách để trang trải, nên rất có thể Chính phủ phải phát hành trái phiếu để bù đắp khi ngân sách thâm hụt và khi đó, nợ công sẽ tăng.
Theo một nghiên cứu gần đây của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tương lai Quỹ Bảo hiểm xã hội của Việt Nam sẽ mất cân bằng và dự kiến đến năm 2024 số chi sẽ lớn hơn số thu. Nếu không có sự can thiệp thì đến năm 2037, số chi sẽ lớn gấp nhiều lần số thu, Quỹ Bảo hiểm xã hội sẽ có nguy cơ "vỡ quỹ".
Giải pháp giảm nợ
Về các giải pháp để quản lý hiệu quả nợ công, TS. Đinh Tuấn Minh và TS.Phạm Thế Anh đề xuất: Trước hết phải nhận diện đầy đủ các nguy cơ xảy ra với nợ công và tính đủ các khoản nợ công, bao gồm các khoản mục đã có. Đồng thời, hai chuyên gia khuyến nghị về nợ Chính quyền và 2 ngân hàng hoạt động có dấu ấn của chính sách.
Thứ hai, các cơ quan thống kê mới liệt kê tổng nợ công mà chưa gắn với các khoản mục chi hay đầu tư sử dụng nợ công. Đã đến lúc Chính phủ cần hình thành một danh mục các khoản chi/đầu tư sử dụng nợ công và đánh giá mức độ rủi ro vỡ nợ cho từng khoản mục; Thiết kế hoặc tái cơ cấu lại danh mục sử dụng nợ công sao cho giảm thiểu được rủi ro, theo đó với các khoản chi hay đầu tư có mức rủi ro vỡ nợ cao sẽ phải thu hẹp mức trần về tỷ lệ để phòng ngừa rủi ro; thắt chặt kỷ luật tài khoá, việc chi tiêu ngân sách cần được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển và giảm chi thường xuyên.
Theo TS. Đinh Tuấn Minh và TS. Phạm Thế Anh, dù ngưỡng an toàn nợ công nói chung và nợ nước ngoài nói riêng là bao nhiêu đi chăng nữa, thì với thâm hụt ngân sách kéo dài như hiện nay, Việt Nam sẽ nhanh chóng chạm ngưỡng. Sớm chuẩn bị cho một kế hoạch tài khóa bền vững dài hơi là rất cần thiết, giúp cho nền kinh tế tránh được những cú sốc tài khóa tiêu cực trong tương lai.
"Đúng là nợ đang nằm trong giới hạn cho phép của Quốc hội, trong chiến lược nợ công của Chính phủ, nhưng chúng ta đang gặp khó khăn. Chúng tôi rất mong nhận được sự chia sẻ của cử tri, đại biểu Quốc hội. …Chỉ tiêu nợ công năm 2015 là 64%; năm 2016 là 64,9%; năm 2017 là 64% và giảm dần đến năm 2020 là 60,2%". Ông Đinh Tiến Dũng - Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày trước Quốc hội chiều 30/10/2014 |