Chè "đắng", vì đâu?

Ðứng thứ năm thế giới về sản lượng chè xuất khẩu và hiện đã có mặt tại gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, tuy nhiên, những bất ổn do mất cân đối giữa sản xuất và chế biến đã, đang làm cho giá trị sản phẩm chè Việt Nam mất ổn định về số lượng và chất lượng.

500 tỷ đồng "trôi sông"...

Gây ra khó khăn cho ngành chè, nguyên nhân mấu chốt vẫn ở khâu tổ chức, sản xuất và quản lý ngành chè ở các địa phương đang có quá nhiều bất cập. Trong đó nổi cộm lên sự mất cân đối giữa công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu - tiêu thụ, phá vỡ các mối quan hệ hợp tác, liên kết đã hình thành trước đây. Cụ thể: từ năm 2005 khi Luật Doanh nghiệp (DN) có hiệu lực, nhiều địa phương đã cấp phép ồ ạt cho các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng hàng loạt cơ sở chế biến ngay trên vùng nguyên liệu mà DN có trước đã đầu tư và quản lý, dẫn đến công suất chế biến cao hơn nhiều so với khả năng cung ứng nguyên liệu (ở Lâm Ðồng, Phú Thọ, Nghệ An... công suất chế biến vượt nguồn cung ứng chè búp tươi từ hai đến ba lần). Sự mất cân đối này đã tạo ra nhu cầu giả tạo về nguyên liệu, dẫn đến sự tranh mua, tranh bán chè tươi, nhiều DN lớn truyền thống cũng không thể mua được nguyên liệu dẫn đến tình trạng ngược quy luật: "cá bé rỉa chết cá lớn" đang diễn ra phổ biến. Có nhiều DN lớn đã đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại và đầu tư cho các hộ trồng chè (theo Quyết định số 80/2002/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) cũng không thể mua được nguyên liệu.

Thực trạng cạnh tranh trong "nội bộ" các DN ngành chè gay gắt và thiếu bình đẳng dẫn đến rất ít DN có cơ hội liên kết đầu tư cho nông dân trồng chè về giống, kỹ thuật canh tác, thu hái, bảo quản chè búp tươi và kiểm soát hệ thống bảo vệ thực vật như trước đây. Cơ quan quản lý nhà nước tại các địa phương không đủ điều kiện để hướng dẫn và kiểm soát nông dân theo quy định về sản xuất chè an toàn. Các hộ gia đình trồng chè hầu hết đã không hái chè theo tiêu chuẩn Nhà nước quy định (TCVN - Chè đọt tươi) mà cắt dài cả cành, lá già, nhưng vẫn tiêu thụ hết do cầu lớn hơn cung quá nhiều. Trong khi DN nào mua cao hơn thì bán, thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học loại nào rẻ thì sử dụng, bởi không ai có thể kiểm soát được dư lượng hóa chất độc hại trong chè. Nhiều vườn chè đã bị tận thu kiệt quệ, năng suất và chất lượng giảm mạnh; giá trị chè tươi thấp, chu kỳ kinh tế cây chè giảm nhanh. Thiệt hại của nông dân sẽ là hàng trăm tỷ đồng khi phải sớm trồng lại cây chè quy trình mới. Các cơ sở chế biến phải mua và chế biến cả phần cuộng chè già gây lãng phí vật tư, năng lượng và lao động, lại phải nhập máy tách cuộng có giá trị rất lớn để tách ra khi tiêu thụ và tỷ lệ mặt hàng chè cao cấp đã giảm sụt khoảng 50%, kéo theo giá trị chè xuất khẩu bình quân giảm hơn 25%. Hơn nữa, việc vận chuyển chè cấp thấp xuất khẩu cũng phải chịu cước phí như chè cấp cao, gây lãng phí lớn. Theo tính toán của Hiệp hội Chè Việt Nam, tình trạng đầu tư quá nhiều cơ sở chế biến chè mỗi năm gây thiệt hại cho toàn ngành lên tới 530 tỷ đồng...

Ông Phạm Ðồng Quảng, Cục trưởng Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) thừa nhận: Do quy mô sản xuất chè nhỏ, bình quân chỉ khoảng 0,2 héc-ta/hộ nên khó tiếp cận với các tiến bộ kỹ thuật mới và khó chứng nhận chè an toàn. Trong khi đó, nhiều cơ sở chế biến được cấp phép xây dựng nhưng không có vùng nguyên liệu, trình độ công nghệ chế biến thấp, dẫn đến chất lượng không cao làm cho giá chè xuất khẩu của Việt Nam đang thấp nhất trong 10 nước xuất khẩu chè của thế giới.

Tìm hướng đi mới... từ hình mẫu cũ

Thế nhưng, theo đánh giá của các nhà chuyên môn thì đó chưa phải là vấn đề lớn nhất. Khó khăn lớn nhất mà các cơ sở chế biến chè lớn, nhỏ nước ta đang phải hứng chịu là nguyên liệu quá xấu và không thể kiểm soát được số lượng, chất lượng để chủ động cung ứng cho khách hàng, nhất là không kiểm soát được dư lượng hóa chất tồn dư trong sản phẩm. Nhiều lô hàng xuất khẩu đã bị trả lại, gây thiệt hại lớn về kinh tế và uy tín cho cả ngành chè Việt Nam. Việc đầu tư quá tải của ngành chè cũng gây thiệt hại cho cả nền kinh tế nước nhà khi sản phẩm chè Việt Nam không thể xâm nhập vào các thị trường có tiềm năng như Bắc Âu, Tây Âu, Nhật Bản mà còn có nguy cơ mất các thị trường truyền thống như Ðài Loan (Trung Quốc), Nga và các nước Bắc Âu... do số lượng, chất lượng chè thấp, không ổn định, thiếu đồng đều và nhất là dư lượng hóa chất độc hại vượt quá mức cho phép.

Trong bối cảnh rối ren hiện tại, ngành chè nên chăng tham khảo lại hình mẫu họ đã từng xây dựng rất thành công trước năm 2005 - là mô hình nhà máy chế biến gắn với nông trường và nông dân trồng chè. Hiện vẫn còn khá nhiều DN áp dụng mô hình này và phát triển bền vững như Công ty CP chè Hà Tĩnh, Công ty TNHH MTV chè Nghệ An, Công ty CP chè Than Uyên (Lai Châu)... Ở đó, chính quyền địa phương đã tạo cơ hội để các DN duy trì được liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và chế biến, phân vùng nguyên liệu cụ thể cho từng cơ sở chế biến. Và DN phải phát triển vùng nguyên liệu chè trước khi xây dựng nhà máy chế biến; công suất chế biến phải cân đối với nguồn nguyên liệu trong vùng dự án và chỉ tăng công suất chế biến tương ứng với khả năng bảo đảm tăng sản lượng chè búp trong từng thời kỳ của dự án...

TS Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho rằng, để vực dậy ngành chè phải thực hiện ngay nhiều biện pháp đồng bộ. Trong đó, phải duy trì được mức tương quan hợp lý giữa năng lực của vùng nguyên liệu và năng suất của hệ thống chế biến chè. Tổ chức sản xuất và quản lý ngành chè trên từng địa bàn cần được chính quyền địa phương quan tâm tổ chức lại theo quy định của pháp luật hiện hành, phối hợp, liên kết có sự tham gia của nông dân trồng chè, các DN chế biến và tiêu thụ chè; từ đó, tạo cơ sở ứng dụng công nghệ về sản xuất, chế biến chè, giúp ngành chè Việt Nam phát triển bền vững.

Cây chè hiện đang tạo việc làm cho khoảng 400 nghìn hộ sản xuất của 35 địa phương với tổng diện tích cả nước khoảng 124 nghìn héc-ta, sản lượng khoảng 900 nghìn tấn búp tươi... Khối lượng xuất khẩu chè chín tháng đầu năm 2014 ước đạt 11 nghìn tấn với giá trị 19 triệu USD, đưa khối lượng chè Việt Nam xuất khẩu đạt 95 nghìn tấn với giá trị khoảng 160 triệu USD (giảm 7% về khối lượng và giảm 2% giá trị so với cùng kỳ năm 2013).