Đó là đánh giá của CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) trong một báo cáo bất thường vừa công bố, trong đó phân tích những tác động của việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đến nền kinh tế Việt Nam.
Trước hết, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. BVSC cho rằng quyết định phá giá VND của NHNN nương theo việc mất giá của Nhân dân tệ ngoài mục tiêu đảm bảo cho Việt Nam không ở vào thế bất lợi thêm trong quan hệ thương mại với Trung Quốc còn nhắm đến bảo toàn sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam sang các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản.
Kể từ khi Trung Quốc tiến hành điều chỉnh tỷ giá ngày 11/8 đến nay, đồng Nhân dân tệ đã giảm 3% so với USD tính tới sáng ngày 19/8, đồng Baht của Thái Lan giảm 0,6%, đồng Ringit của Malaysia giảm 4%; đồng Rupee của Ấn Độ giảm 1,7%; đồng Rupiah của Indonesia giảm 1,54%.
Trong khi đó, đồng VND tính đến sáng 19/8 đã tăng 1,4% so với phiên trước lên 22.408 VND/USD (cách mức trần mới khoảng 150 đồng) và tăng 2,7% so với trước thời điểm đồng Nhân dân tệ bị phá giá. Như vậy so với các nước trong khu vực thì VND giảm giá ở mức trung bình, nhiều hơn Thái Lan, Ấn Độ và Indonesia nhưng ít hơn so với Trung Quốc và Malaysia.
Với diễn biến đó, BVSC cho rằng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường EU và Mỹ sẽ không bị tác động nhiều trong khả năng cạnh tranh.
Thứ hai, tác động đến nhập siêu từ Trung Quốc. Theo phân tích của BVSC, trong cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất của Việt Nam 6 tháng đầu năm, nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 16 tỷ USD, chiếm tới 38% tổng kim ngạch nhập khẩu. Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu là đầu vào cho hoạt động sản xuất trong nước, bao gồm các mặt hàng máy móc thiết bị (nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 32%); linh kiện điện từ (nhập từ Trung Quốc chiếm 17%); nguyên phụ liệu dệt may da giày (nhập từ Trung Quốc chiếm 21,5%)… Với cơ cấu kinh tế như hiện nay, trong ngắn hạn Việt Nam sẽ vẫn phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc.
Do sự mất giá của Nhân dân tệ và VND so với USD hiện nay là gần tương đương nhau (3% so với 2,7%), BVSC cho rằng hiệu ứng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc rẻ đi khó diễn ra, nên tâm lý lo ngại về nhập siêu tăng mạnh trong 5 tháng cuối năm là không quá lớn.
Thứ ba, tác động đến lạm phát. Một tỷ trọng lớn hàng nhập khẩu phục vụ cho sản xuất của Việt Nam là từ Trung Quốc, nhưng tương quan tỷ giá giữa VND và Nhân dân tệ không thay đổi quá nhiều. Một số thị trường nhập khẩu lớn khác của Việt Nam như Hàn Quốc và các nước ASEAN cũng có đồng nội tệ giảm giá so với USD thời gian vừa qua nên sẽ không làm cho hàng nhập khẩu vào Việt Nam tăng giá nhiều. Còn lại các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ phần lớn được nhập khẩu từ Mỹ, Nhập Bản và EU.
Do vậy, BVSC đánh giá tác động của việc VND giảm giá đến lạm phát sẽ không đáng kể và chủ yếu nằm ở phần nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ như ô tô, điện thoại, hàng điện tử… hiện chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
Thứ tư, tác động đến mặt bằng lãi suất. Mặt bằng lãi suất huy động VND trên thị trường đã có dấu hiệu chạm đáy vào tháng 5 và bắt đầu tăng nhẹ trở lại kể từ tháng 6. Việc giảm giá dồn dập VND sẽ càng củng cố cho xu hướng này.
Tuy nhiên, BVSC cho rằng phản ứng kịp thời và quyết liệt của NHNN sẽ giúp dập tắt tâm lý kỳ vọng tiếp tục phá giá VND, từ đó hạn chế các hoạt động đầu cơ. Tuy nhiên, để giữ vững niềm tin của người người gửi tiền vào VND và tạo một khoảng cách đủ hấp dẫn so với lãi suất tiền gửi USD (đề phòng cả trường hợp Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất trở lại), nhiều khả năng mặt bằng lãi suất huy động VND sẽ có xu hướng tăng thêm quanh mức 0,5% trong thời gian tới.
Thứ năm, tác động đến đầu tư nước ngoài. Dòng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu Việt Nam trong ngắn hạn có thể sẽ bị ảnh hưởng nhất định do lo ngại của khối này về rủi ro biến động tỷ giá. Trên thực tế, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng 3 tuần liên tiếp gần đây trên thị trường trái phiếu với giá trị bán ròng hơn 1.200 tỷ đồng.
Tuy vậy, về mặt dài hạn, BVSC cho rằng quyết định chủ động giảm giá VND của NHNN lại có tác dụng xóa bỏ kỳ vọng tỷ giá còn tiếp tục tăng, giúp hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ và khiến nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn trong các quyết định đầu tư lâu dài tại Việt Nam.